Việc giao thương lúa mì toàn cầu và vận chuyển đường đài thường dẫn đến tăng thời gian lưu trữ ngũ cốc, có thể có nguy cơ nhiễm độc tố nấm mốc. Trong nghiên cứu của mình, Wang và ctv mô phỏng các điều kiện bảo quản khác nhau (thời gian, nhiệt độ, ẩm độ, nồng độ độc tố nấm mốc ban đầu) và đánh giá tác động của chúng đối với các loại nấm mốc và phơi nhiễm độc tố nấm mốc, tập trung vào deoxynivalenol (DON) và dạng dẫn xuất D3G của nó.
Đúng như dự đoán, độc lập với điều kiện bảo quản, kết quả cho thấy nấm mốc trên cách đồng điển hình (Alternaria, Fusarium) dần dần được thay thế bằng nấm mốc lưu trữ (chủ yếu là Aspergillus), mặc dù ban đầu Fusarium tăng, sau đó giảm cho đến khi bị ức chế hoàn toàn.
Nhiễm DON phát triển đáng kể trong quá trình bảo quản. Trong tháng đầu tiên lưu trữ, mức DON tăng khoảng 14% trong mọi điều kiện bảo quản. Việc lưu trữ lâu hơn có tác động khác nhau đến mức DON trong lúa mì: ở 25 ° C, mức tăng 36% trong khi giảm ở 30 và 35 ° C. Sự thay đổi ẩm độ cũng nhấn mạnh việc sản sinh DON: độ ẩm tương đối (RH) 12% và 15% làm tăng mức DON khoảng 67% so với lưu trữ RH 13%. Mức D3G có liên quan nhiều đến mức DON (D3G được chuyển đổi từ DON) và tăng tới 202% trong các điều kiện cụ thể (ví dụ liên quan đến sự hiện diện của côn trùng).
Hình: Thay đổi hàm lượng deoxynivalenol (DON) trong lúa mì trong các điều kiện bảo quản khác nhau. Chuyển thể từ Wang và cộng sự.
Nhìn chung, nghiên cứu chỉ ra rằng các điều kiện bảo quản và nồng độ DON ban đầu ảnh hưởng đáng kể đến các đơn vị phân loại Fusarium sản xuất độc tố nấm mốc và thay đổi hàm lượng DON và D3G. Điều này dường như tương quan với sự cạnh tranh giữa các loại nấm: càng cạnh tranh, sản lượng DON càng cao.
Tham khảo: Wang R., Mengmeng L., Jin R., Liu Y., Guan E., Mohamed S.R., Bian K. Interactions among the composition changes in fungal communities and the main mycotoxins in simulated stored wheat grains. J Sci Food Agric 2024, 104, 373-382. https://doi.org/10.1002/jsfa.12928